Bệnh lý tim mạch là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở phụ nữ, bằng tổng số tử vong do ung thư, lao, sốt rét và HIV cộng lại. Tuy nhiên bệnh lại dễ bị bỏ qua do triệu chứng không điển hình như nam giới.
Theo TS Phạm Mạnh Hùng, tổng thư ký Hội Tim mạch VN, tại Viện Tim mạch quốc gia, 10% bệnh nhân nữ bị nhồi máu cơ tim không có các biểu hiện “kinh điển” như cơn đau thắt ngực, trong khi ở nam giới tỉ lệ này chỉ chiếm 3%. Tỉ lệ bệnh nhân nữ bị nhồi máu cơ tim gặp “triệu chứng thầm lặng”, dễ bị bỏ qua như buồn nôn, hơi khó chịu lên đến 40%, trong khi nam giới chỉ ở mức 20%.
“Theo kinh điển, biểu hiện bệnh nhân bị bệnh mạch vành là những cơn đau thắt, đau như ai chẹn giữa xương ức. Khi biểu hiện cấp tính, bệnh nhân bị nhồi máu cơ tim, đau cũng dữ dội hơn, bệnh nhân vã mồ hôi. Trong trường hợp bệnh nhân có biểu hiện thầm lặng, cơn đau chỉ thoáng trong vài phút, có người bị đau bụng, khó thở và đi khám… dạ dày, hô hấp trước khi được phát hiện có bệnh lý tim mạch. Nhiều trường hợp khi phát hiện có triệu chứng tim mạch, bệnh đã trở nặng”- TS Hùng đánh giá.
Bệnh nhân nữ chết nhiều hơn
Cũng theo ông Hùng, bệnh nhân nữ bị nhồi máu cơ tim chiếm đến 40% tổng số bệnh nhân nhồi máu cơ tim vào Viện Tim mạch quốc gia, nhưng tỉ lệ tử vong tại viện của bệnh nhân nữ lại cao hơn: ở mức 15%, trong khi nam giới là 9%. Qua các điều tra gần nhất cho thấy tỉ lệ phụ nữ trưởng thành bị tăng huyết áp thấp hơn nam giới (19% và 24%), nhưng sau tuổi 50 tỉ lệ này ở nam và nữ tương đương nhau. “Dự phòng bệnh lý tim mạch cần thực hiện từ khi còn trẻ, không nên đợi đến khi đã có dấu hiệu của bệnh vì tuổi bệnh nhân bị bệnh tim mạch đã hạ xuống rất nhiều so với trước đây. Tại Viện Tim mạch quốc gia, chúng tôi từng nong và đặt stent cho một bệnh nhân nam mới 28 tuổi. Bệnh nhân này vừa hút thuốc, vừa béo phì” – TS Hùng cho biết.
Động mạch vành là động mạch nuôi tim, bệnh lý động mạch vành xảy ra khi các mảng xơ vữa bít dần mạch máu. Trong trường hợp mảng xơ vữa nứt ra cộng với máu đông gây tắc đột ngột mạch máu, bệnh nhân sẽ bị nhồi máu cơ tim.
Những yếu tố nguy cơ của bệnh lý tim mạch là tuổi (nguy cơ cao nhất là nam từ 50 tuổi và nữ từ 45 tuổi trở lên), gia đình (có người thân như cha mẹ, anh em ruột tử vong sớm do bệnh lý tim mạch). Ngoài ra, còn có hút thuốc lá, tăng huyết áp, đái tháo đường, lười vận động, béo phì, rối loạn mỡ máu. Theo ông Hùng, những người chăm luyện tập thể thao, hình thể cân đối, không hút thuốc, gia đình hạnh phúc tỉ lệ mắc bệnh tim mạch chỉ vài phần trăm, nhưng nếu có thêm một yếu tố nguy cơ, tỉ lệ mắc bệnh sẽ tăng gấp 2-3 lần và thường một người không bao giờ chỉ có một yếu tố nguy cơ!
Phát hiện sớm, tăng chất lượng cuộc sống
Có một sai lầm mà ai cũng nghĩ bệnh tim mạch là “đặc quyền” của nam giới, trong khi nếu cũng béo phì, cao huyết áp thì tỉ lệ nữ gặp các bệnh lý tim mạch không kém nam giới – TS Hùng nhận định. Ngay cả khi chưa có triệu chứng của bệnh, những người có yếu tố nguy cơ nên đi thăm khám định kỳ 3-6 tháng/lần để được phát hiện bệnh sớm. Trường hợp bệnh nhẹ, được can thiệp sớm hoặc được điều trị bằng thuốc, thay đổi lối sống, chất lượng sống của bệnh nhân sẽ tăng. Nếu để bệnh diễn biến nặng, khi đến được với bác sĩ chuyên khoa đã ở mức suy tim, cho dù có can thiệp thì sức khỏe bệnh nhân cũng không hồi phục hoàn toàn. Ví dụ mỗi khi bệnh nhân gắng sức – cả về thể chất và tinh thần, đều bị khó thở, chất lượng sống sẽ giảm.
Có lối sống lành mạnh cũng là một cách dự phòng hiệu quả. Theo TS Hùng, đã có nghiên cứu tại Mỹ cho thấy ba năm sau khi thực hiện cấm hút thuốc lá nơi công cộng, tỉ lệ người có bệnh lý tim mạch giảm hẳn. Đó là do tác hại của thuốc lá tới người hít khói thuốc lá thụ động cũng mạnh không kém so với người hút thuốc. Tại những gia đình có người hút thuốc, có khi người xung quanh như vợ, con… còn bị ảnh hưởng nặng hơn!
Mới đây, GS-TS Nguyễn Lân Việt, viện trưởng Viện Tim mạch quốc gia, đã có báo cáo cho thấy lượng bệnh nhân tim mạch, đặc biệt là động mạch vành, đang tăng với tốc độ chóng mặt. Nếu như cách đây 10-15 năm vài ngày mới gặp một bệnh nhân bị bệnh lý động mạch vành thì nay một ngày có vài ca bệnh! Năm 2003, bệnh nhân động mạch vành chỉ chiếm 11,2% bệnh nhân vào viện thì năm 2005 lên tới 28,8% và năm 2007 mức 24%. Các bệnh lý động mạch ngoại vi cũng gia tăng từ 1,3% năm 2003 lên 3,4% năm 2007. Điều đó cho thấy lối sống đang ảnh hưởng nhiều lên bệnh lý tim mạch.
(Theo TTO)