Sự tích tụ các phần tử cholesterol bên trong động mạch cảnh hình thành các mảng xơ vữa, làm hẹp dần lòng mạch máu và cuối cùng dẫn đến tắc. Đây là nguyên nhân chính gây thiểu năng tuần hoàn não thể đặc biệt và rối loạn nửa người.
Sự hình thành các mảng xơ vữa do tích tụ cholesterol trong động mạch cảnh thường tiến triển trong thời gian dài, có thể tới hàng chục năm. Nó xảy ra ở mọi độ tuổi, song phổ biến nhất là ở những người ngoài 45. N
hóm có nguy cơ cao là những người hút thuốc lá, bị tăng huyết áp, mỡ máu cao, tiểu đường hoặc trong gia đình có tiền sử bệnh tim mạch. Tuổi càng cao, các mảng xơ vữa động mạch càng nhiều, độ hẹp càng tăng và rất dễ mắc nhiều biến chứng.
Điều đáng lo ngại là trên bề mặt của những mảng xơ vữa hay hình thành những cục máu đông, gọi là huyết khối thành mạch. Chúng có thể vỡ ra thành nhiều mảng, di chuyển từ cổ lên não hoặc đọng lại, lớn dần lên gây thiểu năng tuần hoàn não, tắc mạch, tai biến mạch máu não tạm thời hoặc nhồi máu não.
Người ta nhận thấy khoảng 20-30% số trường hợp nhồi máu não là do xơ vữa động mạch cảnh, và ngược lại, khoảng 1/3 bệnh nhân bị hẹp động mạch cảnh từ 80% trở lên đều mắc tai biến mạch máu não. Trong khi đó, tỷ lệ này ở người hẹp động mạch cảnh dưới 80% là không đến 1%.
Hẹp hoặc tắc các động mạch cảnh dẫn máu đi nuôi não có thể gây thiểu năng tuần hoàn não thể đặc biệt, biểu hiện thông thường nhất dưới dạng tai biến mạch não với các triệu chứng như: mù tạm thời, rối loạn vận động (đang cầm đồ vật đột ngột để rơi), rối loạn cảm giác một nửa người (cảm giác tê cóng, tê chân tay, da dày cứng lên, kiến bò nhấp nháy trong da), rối loạn ngôn ngữ (nói thiếu từ, nhầm tiếng, rối loạn phát ngôn) hoặc liệt nhẹ nửa người. Sau khi đã bị nhồi máu não, các mảng xơ vữa ở động mạch cảnh vẫn là nguyên nhân gây tiến triển bệnh.
Ngáy lớn có thể là dấu hiệu xơ vữa động mạch cảnh
Ngáy lớn là một yếu tố nguy cơ biệt lập báo hiệu thời gian đầu của bệnh xơ vữa động mạch cảnh, nguyên nhân dẫn đến đột quỵ.
Bệnh xơ vữa động mạch cảnh xuất hiện khi những mảng xơ vữa hình thành bên trong các động mạch chính của cổ (động mạch cảnh), gây hẹp dần lòng mạch máu và cuối cùng dẫn đến tắc nghẽn. Các động mạch này là nguồn cung cấp máu chính cho não, một khi nó bị hẹp sẽ dẫn đến thiểu năng tuần hoàn não thể đặc biệt.
Theo kết quả quan sát trong số 110 người trưởng thành, chỉ có 20% số người ngáy nhẹ bị xơ vữa động mạch cảnh, trong khi số này tăng lên 32% ở những người ngáy vừa và đặc biệt tăng đến 64% ở những người ngáy lớn.
Sau các yếu tố tuổi tác, giới tính, có tiền sử với thuốc lá và huyết áp cao, ngáy lớn cũng là nguyên nhân chính dẫn đến bệnh xơ vữa động mạch cảnh.
Ông Sharon Lee, đồng tác giả của nhóm các giáo sư Trung tâm Ludwig Engel của Viện nghiên cứu hô hấp thuộc Bệnh viện Westmead ở Australia cho biết, ngáy lớn có thể là nguy cơ phát triển bệnh xơ vữa động mạch cảnh, nguyên nhân dẫn đến đột quỵ.
Đây là nghiên cứu đầu tiên nhằm đo và xác định số lượng tiếng ngáy, khách quan hơn so với việc dùng đến bảng câu hỏi để phát hiện sợi dây liên kết giữa chứng rối loạn hơi thở và chứng xơ vữa động mạch cảnh.
Một báo cáo mới đây của Viện y khoa về giấc ngủ của Mỹ cho biết thói quen ngáy khi ngủ có ở 24% phụ nữ trưởng thành và 40% ở nam giới. Ngáy lớn và nhanh cũng là dấu hiệu báo trước của chứng bệnh ngưng thở lúc ngủ.
Cũng theo ông Lee, một số phương pháp điều trị như: giảm cân, giảm rượu bia, sử dụng máy dưỡng khí… có thể giúp người bệnh giảm được tiếng ngáy. Tuy nhiên chưa có nghiên cứu nào chứng minh là việc giảm tiếng ngáy có thể giúp tránh được nguy cơ khỏi bệnh xơ vữa động mạch cảnh.
Chẩn đoán hẹp động mạch cảnh
– Khám động mạch cảnh: sờ động mạch cảnh vùng cổ (động mạch cảnh gốc), vùng sau amiđan (động mạch cảnh trong), phát hiện mảng rắn dưới tay. Thông thường, bên bị xơ vữa sẽ có động mạch đập rất yếu.
– Siêu âm Doppler hệ động mạch cảnh: đây là phương pháp đơn giản với độ an toàn và chính xác cao, phát hiện nhanh bệnh. Tại một số quốc gia, siêu âm Doppler động mạch cảnh là xét nghiệm thường quy đối với những người cao tuổi và những người mắc một hoặc các bệnh sau: tăng huyết áp, tiểu đường, rối loạn lipid máu, nghiện thuốc lá, béo phì, suy mạch vành hoặc thiểu năng tuần hoàn não.
– Chụp cắt lớp vi tính xoắn ốc: khi chụp, tiêm nhanh thuốc cản quang tĩnh mạch, hình ảnh các lớp cắt xoắn ốc liên tục cho phép nghiên cứu tỉ mỉ các tổn thương của các mạch máu. Phương pháp này khắc phục được hầu hết các nhược điểm của siêu âm Doppler, cho chất lượng chẩn đoán cao với các ưu điểm như: tái dựng các lớp cắt ngang liên tục với độ dày tùy ý, mạch máu có độ cản quang cao, có thể đo chính xác kích thước các động mạch, tái tạo dễ dàng hình nhiều mặt phẳng, đánh giá lòng mạch, tình trạng huyết khối, mức độ tổn thương của mảng xơ vữa…
– Chụp cộng hưởng từ: giúp chẩn đoán khu trú rõ hơn với độ chính xác tương đương chụp mạch.
Điều trị: Đa số bệnh nhân được uống thuốc chống kết tụ tiểu cầu để phòng ngừa và làm giảm biến chứng của mảng xơ vữa. Việc chỉ định mổ lấy mảng xơ vữa cũng cho kết quả khả quan. Cho dù các mảng đóng bám có làm giảm lưu lượng máu của dòng chảy trên 70% ở tuổi 80, việc điều trị vẫn có hiệu quả.
Kể từ khi phẫu thuật viên người Anh Eastcott mổ khai thông thành công một động mạch ở cổ (động mạch cảnh) bị hẹp khít vào năm 1954, vấn đề thiếu máu não do xơ vữa động mạch cảnh được quan tâm đặc biệt. Theo Tổ chức Y tế Thế giới, ở thế kỷ 21, xơ vữa động mạch vẫn là nguyên nhân gây tử vong cao. Việc phát hiện sớm mảng xơ vữa động mạch cảnh từ khi chưa bị biến chứng là một yêu cầu cần thiết, góp phần làm giảm tai biến mạch máu não, giúp nâng cao chất lượng cuộc sống và tuổi thọ.