Viêm họng là bệnh hay gặp ở nhiều lứa tuổi. Bệnh điều trị khó dứt và có thể gây biến chứng thấp tim, viêm khớp, viêm thận…
Nguyên nhân gây bệnh
– Viêm họng có rất nhiều nguyên nhân, phần lớn do virus (80%) như adenovirus, rhinovirus, virus hợp bào đường thở, virus cúm, virus sởi… còn 20% do các vi khuẩn. Đó là các loại liên cầu, tụ cầu, phế cầu, H.Influenzae… Nguy hiểm hơn cả là liên cầu khuẩn tan huyết b nhóm A vì nó là thủ phạm gây nên biến chứng viêm họng gây thấp tim, viêm khớp, viêm thận – những bệnh khá nguy hiểm.
Bác sĩ Lê Thanh Mai (Phòng khám 466 Trần Khát Chân, Hà Nội) cho biết, đau họng do nhiều nguyên nhân: Có người cứ cảm là ho, đau họng. Có người do nói, la hét quá độ, hoặc không khí quá khô… mà viêm. Có người đêm ngạt mũi vô tình thở bằng miệng là sáng ra đã đau họng. Có khi đau họng là giọng khản đặc, thậm chí mất tiếng, luôn phải hắng giọng, khạc đờm hàng tháng dù không ho, không sốt…
Viêm họng gia tăng còn do ô nhiễm môi trường, khói xăng, bụi đường, rác thải công nghiệp… làm đau rát vùng họng, nuốt đau, vướng, chảy nước mũi, ngạt tắc mũi (một bên hoặc cả hai bên), đau đầu, ù tai, ho… có khi kèm viêm họng hạt, gây sốt. Người hay bị cảm lạnh, cổ họng rất hay bị viêm và có đờm khi trở trời, đổi mùa, nóng lạnh bất thường. Khi bệnh mới mắc mà không kịp thời chữa trị sẽ biến chứng thành viêm xoang, viêm phế quản, viêm phổi, viêm tai giữa cấp…
Tuy nhiên, theo BS Lê Thanh Mai, không phải trong trường hợp nào cũng uống kháng sinh. Thực tế, kháng sinh chỉ cần khi tiêu diệt các vi trùng đã xâm nhập sâu vào cơ thể, còn vi khuẩn gây đau họng chỉ khu trú ở thành cổ họng, chỉ cần điều trị một số loại thuốc ngậm thông dụng hoặc một số bài thuốc đông y cũng có thể dứt bệnh.
Phân loại.
Viêm họng có thể chia làm hai loại lớn: viêm họng cấp tính và viêm họng mạn tính.
Viêm họng cấp tính:
Có hai thể là viêm họng đỏ và viêm họng trắng.
Viêm họng đỏ cấp tính:
Biểu hiện: sốt, mệt mỏi, thường sốt đột ngột 39-40 độ C, đau mình mẩy, kém ăn, trẻ em quấy khóc. Nếu do nhiễm khuẩn thì các biểu hiện nhiễm khuẩn khá rõ rệt như môi khô, lưỡi bẩn, mạch nhanh, bộ mặt bơ phờ mệt mỏi.
Người bệnh thấy đau họng, rát họng khi uống nước hoặc nuốt nước bọt, nhưng với các chất rắn nuốt ít đau hơn, bệnh nhân khó nuốt, rát họng. Ho là dấu hiệu thứ hai hay gặp hơn cả, có thể ho từng cơn, ho có đờm, nhầy, lúc đầu trắng sau đặc vàng có mùi hôi, thay đổi tiếng nói. Cụ thể: giọng không được trong, hơi khàn, có khi khàn hẳn. Khám trong họng thấy toàn bộ niêm mạc họng đỏ rực, amidan sưng to, đỏ. Khám ngoài có thể thấy hạch ở góc hàm sưng đau.
Viêm họng trắng cấp tính: Phần lớn là viêm họng bạch hầu và viêm họng vincent. Triệu chứng toàn thân thường có bộ mặt nhiễm độc, nhiễm trùng, sốt không cao nhưng biểu hiện nhiễm độc khá rõ rệt: mặt xanh tái, mệt mỏi, bơ phờ, đái ít…
Biểu hiện: Nuốt đau, nuốt vướng, ho vừa có đờm, tiếng có thể thay đổi. Khám thực thể sẽ thấy họng, đặc biệt trên mặt amidan có giả mạc màu trắng bám chắc vào amidan.
Còn với viêm họng vincent thường gặp ở người lớn tuổi hoặc người già, giả mạc thường mỏng, dễ bong, khi bóc giả mạc phía dưới là một lớp loét nông.
Ngoài ra, viêm họng trắng thường có hạch ở vùng cổ.
Viêm họng mạn tính:
Llà một bệnh rất phổ biến ở mọi lứa tuổi. Nguyên nhân chủ yếu lại là các yếu tố nội tạng, ngoại lai như rượu, thuốc lá, hơi độc, khói, bụi.
Các triệu chứng lâm sàng thường ít, không ảnh hưởng đến toàn thân, không sốt, người chỉ hay mệt mỏi. Dấu hiệu cơ năng quan trọng nhất là rát họng, nuốt vướng, đặc biệt dấu hiệu ho từng cơn hoặc liên tục, ho nhiều, ho khan có thể có ít đờm làm bệnh nhân rất khó chịu phải khạc nhổ suốt ngày.
Khám thực thể không phát hiện gì đặc biệt, chỉ có thể thấy tình trạng trong họng niêm mạc sung huyết đỏ, xuất tiết như nước cháo, nước hồ dính ở thành sau họng, hoặc các tổ chức lympho phát triển mạnh ở thành sau họng người ta hay gọi là viêm họng quá phát hoặc viên họng hạt.
Loại viêm họng ít gặp hơn cả niêm mạc họng teo, khô, có thể có ít vẩy ở thành sau họng.
Những biến chứng
Biến chứng tại chỗ như gây nên áp xe, hoặc viêm tấy quanh họng, viêm tấy quanh amidan, ở trẻ nhỏ có thể gây áp xe thành sau họng.
Những biến chứng gần có thể gây ra viêm mũi, viêm xoang, đặc biệt ở trẻ em là viêm tai giữa (trẻ nghe kém, chảy nước tai, ù tai…), biến chứng này hay gặp hơn cả, nhiều khi không phát hiện được, nhất là viêm tai giữa ứ dịch không thủng màng nhĩ.
Ngoài ra, viêm họng còn lan xuống thanh quản gây viêm thanh quản hoặc viêm thanh, khí, phế quản, viêm phế quản hoặc viêm phổi.
Những biến chứng xa gây viêm cầu thận, viêm khớp, viêm màng ngoài tim…
Theo tin 247