Chỉ số huyết áp đạt dưới 90/60mmHg được coi là huyết áp thấp. Sức bóp cơ tim yếu, giảm trương lực mạch máu, đặc biệt là các mạch máu nhỏ được biểu hiện bằng giảm các giá trị huyết áp. Huyết áp thấp được chia thành huyết áp thấp sinh lý và huyết áp bệnh lý.
Huyết áp thấp sinh lý gặp ở những người khỏe mạnh với đặc điểm giá trị huyết áp thấp duy trì trong suốt cuộc đời, không phát hiện được những biến đổi bệnh lý khi chẩn đoán lâm sàng. Huyết áp thấp sinh lý có thể là huyết áp thấp do thể tạng – di truyền, huyết áp thấp do rèn sức bền thường xuyên (ví dụ ở vận động viên chạy, bơi, đạp xe cự ly dài) và huyết áp thấp ở cư dân sống trên vùng núi cao do sự bù trừ thích nghi trong điều kiện thiếu ôxy.
Huyết áp thấp bệnh lý được phân ra thành: tụt huyết áp cấp với các biểu hiện hoa mắt, chóng mặt, ngất và huyết áp thấp mạn tính. Huyết áp thấp mạn tính lại được chia ra: huyết áp thấp nguyên phát do giảm trương lực thần kinh mạch máu và huyết áp thấp thứ phát – triệu chứng của bệnh khác như thiếu máu, bệnh nhiễm khuẩn cấp tính, mạn tính hay ngộ độc như: viêm họng mạn, viêm đường mật, sâu răng, viêm lợi…
Huyết áp thấp bệnh lý do giảm trương lực thần kinh – mạch máu (bệnh huyết áp thấp) với các biểu hiện như đau đầu, chóng mặt, rối loạn giấc ngủ, rối loạn chức năng tim mạch (đau ngực trái, rối loạn nhịp tim, điện tim biến đổi).
Theo sức khỏe đời sống